Quy hoạch cảng cạn tầm nhìn 2050
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định số 979/QĐ-TTg ngày 22/8/2023 về việc Phê duyệt quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Cảng cạn là một bộ phận thuộc kết cấu hạ tầng giao thông vận tải, là đầu mối tổ chức vận tải gắn liền với hoạt động của cảng biển, cảng hàng không, cảng thủy nội địa, ga đường sắt, cửa khẩu đường bộ. Phát triển cảng cạn phải phù hợp với quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển, các quy hoạch phát triển mạng lưới giao thông, đồng thời đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng của các vùng và địa phương.
Quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 gồm 3 khu vực: Khu vực phía Bắc; Khu vực miền Trung - Tây Nguyên và Khu vực phía Nam.
Theo Quyết định, Tỉnh Thừa Thiên Huế được quy hoạch vào nhóm Khu vực kinh tế Đà Nẵng, Huế, Quảng Nam (thuộc khu vực miền Trung - Tây Nguyên), phạm vi quy hoạch gồm các tỉnh và thành phố: Huế, Đà Nẵng,Quảng Nam có diện tích quy hoạch đến năm 2023 khoảng từ 21 ha đến 35 ha với năng lực thông qua khoảng từ 210 nghìn TEU/năm đến 350 nghìn TEU/năm.
Trong đó, Cụm cảng cạn Chân Mây (bao gồm Cảng cạn Chân Mây, Cảng cạn Phú Lộc thuộc huyện Phú Lộc - Tỉnh Thừa Thiên Huế) có diện tích quy hoạch 15 – 20 ha (150 ha giai đoạn 2050) với năng lực thông qua (Teu/năm) 150.000 - 200.000 trong giai đoạn 2030.
Cụm cảng cạn Chân Mây được kết nối với cảng biển Đà Nẵng, Hòn La. Ngoài ra, cảng biển Chân Mây còn được kết nối với Cảng cạn Mỹ Thủy; Cảng cạn Lao Bảo (hành lang vận tải quốc lộ 9).
Mục tiêu tổng quát của quy hoạch là từng bước hình thành và phát triển hệ thống cảng cạn trên phạm vi cả nước nhằm đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa xuất, nhập khẩu, tăng năng lực thông qua hàng hóa của các cảng biển; tổ chức vận tải container một cách hợp lý nhằm giảm chi phí vận chuyển và thời gian lưu hàng tại cảng biển, đảm bảo an toàn hàng hóa;
Bên cạnh đó, góp phần giảm ùn tắc giao thông và bảo vệ môi trường, đặc biệt ở các đô thị lớn và khu vực có cảng biển lớn. Phát triển hệ thống cảng cạn trở thành các đầu mối tổ chức vận tải, trung chuyển, phân phối hàng hóa, kết hợp với cung cấp các dịch vụ logistics.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2030, phát triển hệ thống cảng cạn có khả năng thông qua khoảng từ 25% đến 35% nhu cầu hàng hóa vận tải container xuất nhập khẩu theo các hành lang vận tải. Hình thành các cảng cạn, cụm cảng cạn với tổng công suất khoảng từ 11,9 triệu TEU/năm đến 17,1 triệu TEU/năm.
Trong đó, khu vực phía Bắc gồm các cảng cạn, cụm cảng cạn với công suất khoảng từ 4,29 triệu TEU/năm đến 6,2 triệu Teu/năm; khu vực miền Trung - Tây Nguyên có các cảng cạn, cụm cảng cạn với công suất khoảng từ 0,9 triệu TEU/năm đến 1,4 triệu TEU/năm; khu vực phía Nam có các cảng cạn, cụm cảng cạn với công suất khoảng từ 6,8 triệu TEU/năm đến 9,5 triệu Teu/năm.
Định hướng đến năm 2050, phát triển hệ thống cảng cạn trở thành các đầu mối tổ chức vận tải, trung chuyển, phân phối hàng hóa, kết hợp với cung cấp các dịch vụ logistics, có khả năng thông qua khoảng 30% - 35% nhu cầu hàng hóa vận tải container xuất nhập khẩu theo các hành lang vận tải, đồng thời đáp ứng nhu cầu dịch vụ logistics tại các địa phương.
Nhu cầu vốn đầu tư hệ thống cảng cạn đến năm 2030 khoảng từ 27,4 đến 42,38 nghìn tỷ đồng.