Xử lý hình sự vi phạm PCCC ngay cả khi chưa xảy ra cháy
Từ ngày 18/6, theo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, các trường hợp vi phạm quy định về PCCC sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự ngay cả khi chưa xảy ra cháy, nếu hậu quả chắc chắn sẽ xảy ra và gây thiệt hại nếu không được ngăn chặn kịp thời.
Theo quy định, các hành vi vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Điều 313 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, trong thời gian qua, thực tiễn xử lý trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi vi phạm về phòng cháy, chữa cháy có những khó khăn, vướng mắc nhất định.
Để kịp thời giải quyết các khó khăn, vướng mắc trên, vào ngày 24/5/2024, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 02/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 313 của Bộ luật Hình sự về tội vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy.
Nghị quyết 02 có 6 điều, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 18/6/2024.
Theo đó, truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 4 điều 313 của Bộ luật Hình sự được hướng dẫn cụ thể:
"Vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 điều 313 nếu không được ngăn chặn kịp thời'... thuộc một trong 2 trường hợp:
Trường hợp 1: Chưa xảy ra cháy nhưng nếu không được ngăn chặn kịp thời thì chắc chắn sẽ cháy và dẫn đến thiệt hại, quy định tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 điều 313 của Bộ luật Hình sự.
Trường hợp 2: Đã xảy ra cháy và tất yếu sẽ dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 điều 313 của Bộ luật Hình sự nhưng do được ngăn chặn kịp thời nên thiệt hại dưới mức quy định tại khoản 1 điều 313 của Bộ luật Hình sự.
Đồng thời, Nghị quyết đã quy định rõ khái niệm “ngăn chặn kịp thời” bảo đảm dễ hiểu, dễ thực hiện.
“Ngăn chặn kịp thời” là trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các biện pháp ngăn chặn ngay sau khi có hành vi vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy như: dập tắt đám cháy, di chuyển chất nguy hiểm về cháy ra khỏi nơi đông người, mang nguồn lửa, nguồn nhiệt ra khỏi nơi có quy định cấm,... để không xảy ra cháy hoặc đã xảy ra cháy nhưng thiệt hại dưới mức quy định tại khoản 1 Điều 313 của Bộ luật Hình sự.
Ví dụ như, trường hợp khi vào đổ xăng, A đang hút thuốc lá (lúc này cây xăng có 10 người). B yêu cầu A ra ngoài dập tắt thuốc nhưng A không thực hiện mà còn ném điếu thuốc lá đang cháy xuống đất làm lửa bùng cháy, ngay lập tức B đã dùng bình cứu hỏa để dập tắt đám cháy nên chưa có hậu quả xảy ra.
Hành vi của A vi phạm quy định về “mang nguồn lửa vào nơi có quy định cấm lửa” và bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 4 Điều 313 của Bộ luật Hình sự.
Ngoài ra, Nghị quyết quy định trường hợp người phạm tội thực hiện công việc bắt buộc phải tuân theo quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người nhưng trong quá trình thực hiện họ vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người xảy ra cháy và gây thiệt hại thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 313 của Bộ luật Hình sự mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 295 của Bộ luật Hình sự.
Ví dụ: A được B thuê hàn mái nhà các phòng Karaoke. Trong quá trình hàn, A không trang bị tấm chắn tia kim loại nóng chảy bắn ra, đồng thời không theo dõi quá trình hàn một cách an toàn nên khi các hạt kim loại nóng mang nhiệt độ cao bắn ra xung quanh đã hình thành các đám cháy lớn gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng.
Hành vi của A đã vi phạm quy định tại Mục 2.2.12 Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 03:2011/BLĐTBXH ngày 29 tháng 7 năm 2011 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về an toàn lao động đối với máy hàn điện và công việc hàn điện. Trường hợp này, A bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 313 của Bộ luật Hình sự.