Đẩy mạnh logistic nông nghiệp
Xây dựng Đề án phát triển hạ tầng logistics cho nông sản, Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản đề xuất cần tập trung hỗ trợ hạ tầng cứng và hạ tầng mềm logistics tại các hành lang biên giới để tập kết, giao dịch trực tiếp sang thị trường nhập khẩu.
Logistics yếu, giá thành sản phẩm bị tăng
Ông Nguyễn Quốc Toản, Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản cho biết, những nhóm sản phẩm nông sản cần đòi hỏi dịch vụ logistics chủ yếu ở ngành hàng trái cây. Hiện nay, có hơn 7.500 cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản quy mô công nghiệp. Tuy nhiên, nhiều cơ sở không gắn với vùng nguyên liệu. Đây là khó khăn cốt lõi, và Bộ NN-PTNT đã có đề án xây dựng vùng nguyên liệu gắn với cơ sở chế biến.
Tháng 2/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 221 về phê duyệt kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển thị trường logistics Việt Nam đến năm 2025. Trong đó, Bộ NN-PTNT được giao xây dựng và hoàn thiện hạ tầng logistics phục vụ nông nghiệp, nhất là quy hoạch và triển khai xây dựng hệ thống kho bãi, trung tâm logistics phục vụ nông nghiệp tại các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn và kết nối giữa các vùng ngành đến trung tâm logistics và cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu.
Về hạ tầng logistics, Việt Nam đã có hệ thống đường bộ, đường sắt, cảng biển, sân bay, cửa khẩu quốc gia, 9.000 chợ dân sinh, 1.200 siêu thị; 250 trung tâm thương mại, hơn 1.800 cửa hàng tiện lợi và gần 1.700 chuỗi nông sản an toàn.
Cả nước hiện có khoảng 4.000 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics. Trong đó, 88% là các doanh nghiệp trong nước, 10% là doanh nghiệp liên doanh và 2% là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Dẫn dữ liệu nghiên cứu của Gemadept Logistics, Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản cho biết mỗi năm các nhà máy chế biến tại Đồng bằng sông Cửu Long có nhu cầu vận chuyển khoảng 2 - 3 triệu tấn thủy sản, 6 - 7 triệu tấn gạo, 2,5 - 3 triệu tấn trái cây đến hệ thống kho lạnh, cảng ở TP.HCM và Bà Rịa - Vũng Tàu.
Ngược lại, các nhà máy vật tư nông nghiệp như nông cụ, nông dược, phân bón, thức ăn gia súc tại Đông Nam Bộ có nhu cầu vận chuyển 6 - 7 triệu tấn thức ăn gia súc, 2 triệu tấn phân bón đến thị trường miền Tây Nam bộ. Thế nhưng, 70% lượng hàng hóa xuất khẩu mỗi năm phải chuyển về TP.HCM hoặc cảng Cái Mép bằng đường bộ khiến giá thành sản phẩm bị đội lên; lưu thông khó khăn và mất thời gian.
Vì chi phí hạ tầng cứng chưa đồng bộ nên chi phí logistics cho xuất khẩu nông sản trung bình chiếm tỷ lệ khoảng 20 - 25%, khá cao so với các nước trong khu vực (như Thái Lan, chi phí logistics nông sản xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 10 - 15%).
Nhiều hạn chế về hạ tầng logistics theo chuỗi giá trị nông nghiệp được ông Toản chỉ ra gồm: Năng lực lưu kho chưa đáp ứng được yêu cầu; chuỗi cung ứng dịch vụ logistics hầu hết do các doanh nghiệp nhỏ thực hiện đơn lẻ từng khâu; dịch vụ logistics mới chỉ phát triển ở các thành phố lớn trong khi các vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm như ĐBSCL chưa có nhiều.
Ngoài ra, kênh phân phối nông sản qua hệ thống chợ đầu mối và chợ dân sinh chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng; cơ sở hạ tầng và dịch vụ phục vụ thương mại biên giới hạn chế…
Xây dựng Đề án phát triển hạ tầng logistics cho nông sản, Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản đề xuất cần tập trung hỗ trợ hạ tầng cứng và hạ tầng mềm logistics tại các hành lang biên giới để tập kết, giao dịch trực tiếp sang thị trường nhập khẩu. Cùng với đó là đầu tư hình thành các điểm logistics cộng đồng ở nông thôn gắn với vùng nguyên liệu tập trung để cung cấp dịch vụ kho bãi, kho bảo quản lạnh và đóng gói bao bì.
Tại các điểm Logistics đều phải có sàn giao dịch điện tử, kho lạnh bảo quản nông sản tươi, kho hàng khô, bãi tập kết, bốc dỡ xe container, điểm kiểm tra, kiểm soát chất lượng hàng hóa đầu ra, đầu vào, ki-ốt bán lẻ và không gian quảng bá sản phẩm cộng đồng.
Kiến tạo hệ sinh thái logistics bền vững trong nông nghiệp
Theo Bộ trưởng Lê Minh Hoan, để hình thành được một hệ thống logistics đồng bộ phục vụ kinh tế nông nghiệp, cần phải xây dựng quy hoạch, có đề án, chiến lược, kế hoạch... Tuy nhiên, mỗi quy hoạch, chiến lược cần phải có nhiều năm khảo sát, đánh giá, xây dựng mới ra được.
Bởi vậy, Bộ trưởng Lê Minh Hoan đề nghị các đơn vị có liên quan cần khu biệt lại phạm vi và các nhiệm vụ cần tập trung triển khai theo từng năm dựa trên điều kiện và năng lực thực tế. Đặc biệt, ngoài nguồn ngân sách nhà nước, cần phải thu hút các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp cùng tham gia. Vì nhà nước không thể khai thác và vận hành hệ thống hạ tầng logistics hiệu quả bằng doanh nghiệp.
Theo ông Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, hệ thống logistics của quốc gia bao gồm cả những trung tâm nhỏ, trung tâm kết nối và các dịch vụ để có thể đưa hàng hóa, sản phẩm nông sản vào các thị trường lớn.
Do đó, cần phải có đánh giá theo chuỗi giá trị nông nghiệp và giải quyết từng khâu trong chuỗi giá trị đó. Hiện nay, chúng ta đã có những dự án xây dựng trung tâm logistics cho vùng ĐBSCL tại Cần Thơ.
Ngân hàng Thế giới cũng sẵn sàng tài trợ để thành lập trung tâm logistics ở Đồng Tháp khi địa phương bố trí được mặt bằng. Một số trung tâm logistics ở khu vực biên mậu, cảng biển cũng đã được quy hoạch và có mặt bằng, do đó cần rà soát, đánh giá và hỗ trợ để thúc đẩy hình thành các trung tâm logistics này một cách đồng bộ, hiện đại, hiệu quả cao.
Giai đoạn này, chúng ta cần khu biệt lại các mục tiêu, nhiệm vụ để tập trung nguồn lực hỗ trợ hình thành các trung tâm logistics tại các vùng nguyên liệu tập trung thông qua việc lồng ghép thực hiện Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu giai đoạn 2022 - 2025; Quyết định 1804 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021 - 2025.
Bộ trưởng nhấn mạnh, trong quá trình xây dựng các mô hình cung ứng dịch vụ logistics tại các vùng nguyên liệu, cần phải gắn với sự tham gia của doanh nghiệp thu mua, chế biến và các hợp tác xã. Trong đó, doanh nghiệp sẽ hướng dẫn các hợp tác xã quản trị, kỹ năng vận hành hệ thống một cách chuyên nghiệp và có hiệu quả.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam chia sẻ, nhận thấy các tổ chức của nông dân đang yếu về kiến thức logistics, hạ tầng cơ sở và sự liên kết, trong giai đoạn 2023 - 2027, Thái Lan tập trung hỗ trợ các hợp tác xã phát triển hệ thống logistics để nâng giá trị gia tăng của nông sản. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng cần xây dựng một chương trình phát triển hệ thống logistics nông nghiệp trong các hợp tác xã nông nghiệp.
Về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan cho rằng trong quá trình xây dựng các mô hình cung ứng dịch vụ logistics tại các vùng nguyên liệu, cần phải gắn với sự tham gia của doanh nghiệp thu mua, chế biến và các hợp tác xã. Trong đó, doanh nghiệp sẽ hướng dẫn các hợp tác xã quản trị, kỹ năng vận hành hệ thống một cách chuyên nghiệp và có hiệu quả.
“Để hình thành được một hệ thống logistics đồng bộ phục vụ kinh tế nông nghiệp, chúng ta cần phải xây dựng quy hoạch, có đề án, chiến lược, kế hoạch... Tuy nhiên, mỗi quy hoạch, chiến lược cần phải có nhiều năm khảo sát, đánh giá, xây dựng mới ra được”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan lưu ý.
Lãnh đạo Bộ yêu cầu các đơn vị trực thuộc xây dựng Đề án logistics cho nông sản, cần khu biệt lại phạm vi và các nhiệm vụ cần tập trung triển khai theo từng năm dựa trên điều kiện và năng lực thực tế. Đặc biệt, ngoài nguồn ngân sách nhà nước, cần phải thu hút các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp cùng tham gia. Vì nhà nước không thể khai thác và vận hành hệ thống hạ tầng logistics hiệu quả bằng doanh nghiệp.
Theo Bộ trưởng, trong giai đoạn này cần tập trung nguồn lực hỗ trợ hình thành các trung tâm logistics tại các vùng nguyên liệu tập trung thông qua việc lồng ghép thực hiện Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.