24 cơ chế đặc thù để hiện thực hóa dự án đường sắt cao tốc 70 tỷ USD
Là dự án lớn nhất lịch sử đầu tư công của Việt Nam, đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam được Bộ GTVT đề xuất áp dụng 19 cơ chế thuộc thẩm quyền Quốc hội và 5 cơ chế thuộc thẩm quyền Chính phủ để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả.
Đường sắt tốc độ cao 350 km/h trên trục Bắc - Nam dự kiến hoàn thành vào năm 2035 được kỳ vọng sẽ không chỉ tạo bước đột phá về hạ tầng giao thông và mở ra không gian phát triển mới, mà còn là bước tiến quan trọng đưa nền kinh tế Việt Nam sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới.
Trước đó, đường sắt tốc độ cao trục Bắc - Nam đã được định hướng xây dựng theo hướng hiện đại, đồng bộ và hiệu quả của Bộ Chính trị trong Kết luận số 49-KL/TW (28/02/2023). Với tầm nhìn đến năm 2030 và 2045, dự án nhằm phát huy các lợi thế tiềm năng của đất nước và phù hợp xu hướng phát triển của thế giới.
Để hiện thực hóa định hướng này, Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 20/9/2024, thống nhất chủ trương đầu tư toàn tuyến đường sắt tốc độ cao 350 km/h trên trục Bắc - Nam.
Phát biểu tại Toạ đàm "Đường sắt tốc độ cao -Thời cơ và thách thức" do Cổng thông tin điện tử Chính phủ tổ chức chiều 29/10, Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Danh Huy cho biết, đây là dự án có quy mô đặc biệt lớn, có công nghệ mới và lần đầu tiên Việt Nam triển khai, nên thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT đã mời các chuyên gia ở nhiều lĩnh vực như kỹ thuật, kinh tế, xây dựng...
Trên cơ sở tham vấn chuyên gia ở nhiều lĩnh vực, Bộ GTVT chủ động xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đã được Chính phủ thông qua thống nhất trình Quốc hội; trong đó, có 19 cơ chế, chính sách thuộc thẩm quyền Quốc hội và 5 cơ chế, chính sách thuộc thẩm quyền Chính phủ phê duyệt.
Các cơ chế, chính sách tập trung vào 5 nhóm vấn đề về: đảm bảo tính khả thi, đẩy nhanh tiến độ thực hiện để bảo đảm quá trình đầu tư thành công; đảm bảo huy động đủ nguồn lực, linh hoạt; đẩy mạnh phân cấp, ủy quyền đi đôi với kiểm tra giám sát; đào tạo nguồn nhân lực, không chỉ thực hiện mà còn vận hành, khai thác, sửa chữa, bảo trì thiết bị, kết cầu hạ tầng, không phụ thuộc suốt vòng đời dự án; cuối cùng là phát triển công nghiệp đường sắt tiến tới làm chủ công nghệ.
Liên quan đến việc nhiều doanh nghiệp trong nước đề xuất cần có chính sách ưu tiên trong việc tham gia vào Dự án Đường sắt tốc độ cao (350km/giờ) trên trục Bắc-Nam, Thứ trưởng Nguyễn Danh Huy nhấn mạnh, tại Tờ trình của Chính phủ trước Quốc hội những ngày tới đây đã đưa ra cơ chế, chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp trong nước tham gia đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao. Theo đó, các doanh nghiệp này phải ràng buộc các điều kiện như tổng thầu phải sử dụng dịch vụ, hàng hóa trong nước sản xuất, đây là điều kiện tiên quyết với các nhà thầu khi tham gia.
Hay các chính sách trình Quốc hội về việc giao nhiệm vụ cho doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, hoặc đặt hàng doanh nghiệp trong nước các hạng mục, hàng hóa trong nước có thể sản xuất được như luyện kim, sản xuất thép, là tiền đề sản xuất đầu máy toa xe, không chỉ cho đường sắt tốc độ cao mà tiến tới là đường sắt quốc gia, đường sắt đô thị trong tương lai.
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương đánh giá các cơ chế, chính sách đặc thù kể trên nhằm bảo đảm mục tiêu chất lượng, tiến độ và mức độ an toàn công trình, làm sao triển khai dự án nhanh nhất và hiệu quả nhất. Trong quá trình triển khai sau này, cần thêm cơ chế, chính sách đặc thù thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Chính phủ, có thể tiếp tục đề xuất, thuộc thẩm quyền cấp nào trình cấp đó, từ đó dành ưu tiên cao nhất cho việc triển khai dự án.
Về phía Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Ủy viên Thường trực Phan Đức Hiếu cũng cho rằng, cơ chế, chính sách là rất cần thiết và dự án này không thể thành công, triển khai đúng tiến độ nếu thiếu cơ chế, chính sách đặc thù, nhưng cái này khó vì chưa có tiền lệ. Đại diện Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đề xuất, trong các nhóm cơ chế này, các cơ quan có thẩm quyền xem xét, tính đến các cơ chế linh hoạt. Bởi, trong quá trình triển khai phát sinh vấn đề, nếu áp dụng quy trình tuần tự có thể không đủ linh hoạt, nên cần cơ chế giải quyết nhanh các vấn đề.
Trong thông báo kết luận của Thường trực Chính phủ tại cuộc họp về Dự án đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc-Nam và các dự án đường sắt kết nối với Trung Quốc vừa qua đã nêu: Về các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt, Thường trực Chính phủ yêu cầu cần phải rà soát bổ sung các cơ chế, chính sách đặc thù cần thiết nhằm huy động tối đa nguồn lực và cắt giảm, rút gọn các thủ tục đầu tư dự án; bổ sung kiến nghị Quốc hội cho phép. Đối với những cơ chế chính sách phát sinh sau khi Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư dự án, trường hợp chính sách phát sinh trong quá trình thực hiện thuộc thẩm quyền của Quốc hội giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định và trường hợp thuộc thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao Chính phủ quyết định; các cơ quan báo cáo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Về phân cấp, phân quyền, Bộ GTVT bám sát chỉ đạo của Bộ Chính trị về việc phân cấp, phân quyền cho các bộ, ngành, địa phương nhằm huy động nguồn lực của cả hệ thống chính trị, đóng góp của các bộ, ngành, địa phương, nhất là trong công tác giải phóng mặt bằng, huy động nguồn lực thực hiện dự án và xây dựng các ga dừng, đỗ.